Thành phần:
1. Ngô thù du: 2-8 gam
2. Đương quy: 12 gam
3. Xuyên khung: 4-12 gam
4. Xich thước: 12 gam
5. Đảng sâm: 12 gam
6. Quế chi: 4-8 gam
7. A giao: 8-12 gam
8. Đan bì: 4-12 gam
9. Sinh khương: 3 lát
10. Chích thảo: 4 gam
11. Bán hạ: 6-12 gam
12. Mạch đông: 12 gam
Cách dùng:
Mỗi ngày 1 thang sắc nước, chia 2 lần uống.
Tác dụng:
Ôn kinh dưỡng huyết, hoạt huyết điều kinh.
Giải thích bài thuốc:
Trước đây, người ta cho phương này là tễ tiêu biểu cho các thứ thuốc điều kinh, phần nhiều gia giảm vận dụng cốt đạt và pháp, không câu nệ vào phương. Nếu tử cung quá hư hàn thay Quế chi bằng Nhục quế, khí trệ thì gia Hương phụ, Ô dược, bụng dưới lạnh đau bụng thì gia Tiểu hồi, Ngải diệp sao, Tử thạch anh v.v… để làm ấm thêm dạ con, Đan bì, Mạch đông có thể giảm hoặc bỏ, kinh có máu tím thành khối nên bỏ A giao, gia Đào nhân, Hồng hoa để phá ứ, kinh giỏ giọt sắc nhạt lây nhây, eo lưng nhức mỏi nên gia Thục địa, Đỗ trọng, Tục đoạn, Chấn linh đan để bổ can thận, chỉ băng lậu – âm hư nội nhiệt gia Sinh địa, nữ trinh (cây xấu hổ), cỏ nhọ nồi để dưỡng âm và bỏ Ngô thù, Quế chi, Sinh khương, Bán hạ.
Ứng dụng lâm sàng:
Chủ trị: Phụ nữ bụng dưới bị lạnh, hoặc giỏ giọt không dứt, hoặc đến kỳ không thấy, buổi chiều phát sốt, lòng bàn tay nóng, môi lưỡi khô ráo, lâu ngày không có thai.