Vài nét về phương pháp chữa khối u bằng y học cổ truyền

Khối u là những tăng sinh bất thường trong cơ thể con người. Khối u có thể là lành tính hoặc ác tính (ung thư). Trong những năm gần đây, vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp chữa khối u bằng y học cổ truyền (YHCT) nói chung và đông dược nói riêng trong việc phòng chống khối u ác tính (ung thư) ngày càng thu hút được sự quan tâm của y giới và toàn xã hội. Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, sự hiểu biết của không ít người về vấn đề này còn khá hạn hẹp. Dưới đây, chúng tôi xin được bàn đến một số nội dung cơ bản về vấn đề này.

Khối u và ung thư trong y học cổ truyền

Trong các tài liệu cổ điển của Y Học Cổ Truyền (YHCT) có ghi chép đến các bệnh này và có những tên khác nhau, như Anh lựu (U tuyến giáp), Nhũ nham (U tuyến vú)…

Ung thư, hiểu theo nghĩa của danh từ Cancer, Carcinoma, không phải là căn bệnh của riêng thời hiện đại mà từ xa xưa nó đã từng xuất hiện trong xã hội loài người. Nói như vậy để khẳng định: nền YHCT trên thế giới nói chung và đông y dược nói riêng đã từng nghiên cứu và sử dụng nhiều biện pháp để phòng chống căn bệnh này. 

Trong YHCT phương đông, bệnh danh Ung thư đã có từ rất lâu đời nhưng bản chất nó được dùng để chỉ các loại mụn nhọt nói chung và sau này còn được dùng để chỉ một số bệnh lý khác như lao hạch, lao xương khớp, viêm tắc động mạch. Còn thực chất căn bệnh mà ngày nay y học hiện đại gọi là Ung thư (mượn danh từ Ung thư theo âm Hán Việt của đông y để dịch các từ Cancer, Carcinoma) lại thuộc vào phạm vi các chứng Nham, chứng Thũng lựu của YHCT.

Phương pháp chữa khối u bằng y học cổ truyền

Theo quan niệm của YHCT thì thất tình (sự rối loạn về hoạt động tâm lý xã hội) ảnh hưởng đến công năng hoạt động về ngũ tạng, về khí huyết, đàm ẩm, như khí trệ huyết ứ, đàm thấp gây trở trệ (Ung thư thực quản do khí trệ huyết ứ gây ra; Ung thư dạ dày do tỳ bị hư hàn sinh ra đàm thấp; Ung thư vú do khí uất kết…).

Trong công tác chẩn đoán việc biện chứng có ý nghĩa rất quan trọng, gầy dễ ung thư phổi, béo dễ ung thư hạch; ung thư trực tràng có liên quan đến thận, vì thận khai khiếu ra hậu âm, ung thư xương cũng liên quan đến thận vì thận chủ về cốt tủy.

Tùy theo đường dùng có thể chia thành 2 nhóm: uống trong và dùng ngoài (xông, xoa. bôi, đắp…). Hiện nay, bằng công nghệ hiện đại, đông dược trị liệu ung thư còn được sử dụng theo đường tiêm truyền. Tùy theo dạng bào chế có thể chia thành 2 nhóm: dạng cổ truyền như thuốc sắc, cao, đơn, hoàn, tán.. và dạng hiện đại như viên nang, viên nén, siro, trà tan, thuốc tiêm, dịch truyền…

Tùy theo nguyên tắc trị liệu có thể chia ra 2 nhóm: theo biện chứng luận trị có thể dùng cổ phương hoặc tân phương mà gia giảm cho phù hợp với từng thể bệnh, giai đoạn bệnh và theo biện bệnh luận trị có thể dùng tân phương, kinh nghiệm dân gian hoặc các chế phẩm được bào chế theo lối cổ truyền hay hiện đại cho tất cả các thể bệnh khác nhau. Tùy theo lý luận chỉ đạo có thể chia ra 2 nhóm: dùng hỗn hợp rất nhiều chất có trong một hay nhiều dược liệu mang tính tổng thể theo quan niệm của y dược học cổ truyền hoặc dùng một hoặc vài hoạt chất đã được tinh chế, chiết xuất giống như tân dược theo quan niệm của của y dược học hiện đại (trên thực tế phương thức này không còn mang bản sắc của y học cổ truyền nữa).

Nguyên tắc chữa khối u bằng YHCT

Có 4 biện pháp lớn là: phù chính bồi bản, khứ tà kháng ung, phù chính khứ tà và đối chứng trị liệu.

Phù chính bồi bản: Theo đông y, ung thư là một bệnh mạn tính, đa phần thuộc hư chứng, đặc biệt là khi phải sử dụng đến các biện pháp như phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu…Vậy nên, trước hết và nhất thiết phải phù chính bồi bản, có nghĩa là phải chú ý nâng cao sức đề kháng của cơ thể bằng một số biện pháp trọng yếu tùy theo tình trạng bệnh lý cụ thể như bổ ích khí huyết, ích khí kiện tỳ, dưỡng âm sinh tân, tư âm bổ huyết, ôn thận tráng dương, kiện tỳ bổ thận…

Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, các biện pháp này có tác dụng: nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, cải thiện công năng tạo huyết của tủy xương, thúc đẩy quá trình chuyển hóa các chất, điều hòa hệ thống nội tiết, tăng cường tác dụng của thuốc kháng ung, giảm thiểu tác dụng không mong muốn của hóa xạ trị liệu…

Khứ tà kháng ung: Theo đông y, ung thư tuyệt đại đa số là có biểu hiện “bản hư tiêu thực”, có nghĩa là sức đề kháng thì suy nhược trong khi các nhân tố bệnh lý thì đang phát huy mạnh mẽ sức tàn phá. “Tà” ở đây được hiểu là các nguyên nhân gây bệnh, các tế bào ung thư và các rối loạn bệnh lý toàn thân hoặc tại chỗ do chúng gây nên. Bởi vậy, trong trị liệu, không những phải phù chính bồi bản mà còn phải chú ý khứ tà kháng ung, có nghĩa là phải tác động trực tiếp vào các nhân tố gây bệnh bằng nhiều biện pháp như: thanh nhiệt giải độc, hóa đàm trừ thấp, công hạ trục thủy, nhuyễn kiên tán kết, tiêu thũng chỉ thống, sơ can lý khí, hoạt huyết hóa ứ…

Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, các biện pháp này có tác dụng trực tiếp tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, làm giảm các triệu chứng như giảm đau, chống viêm, kháng khuẩn, hạ sốt, giải độc, chống phù nề, cầm máu, chống ngưng tập tiểu cầu, ngăn ngừa di căn…

Phù chính khứ tà: Thực chất đây là biện pháp mang tính kết hợp giữa hai biện pháp đã nêu ở trên nhưng đặt ra để nhấn mạnh sự phối hợp linh hoạt và biện chứng giữa chúng. Phù chính là để tăng cường thể chất, nâng cao năng lực chống đỡ bệnh tật của cơ thể, từ đó mà góp phần tiêu trừ bệnh tà. Khứ tà là sử dụng các biện pháp tác động trực tiếp vào nguyên nhân gây bệnh, phòng ngừa và xử lý các biến chứng, ngăn chặn quá trình phát triển của bệnh, giúp cho cơ thể dần dần phục hồi sức đề kháng. Phù chính khứ tà là căn cứ vào thực tế tranh đấu giữa “chính” và “tà”, vào tình hình biến hóa thịnh suy của quá trình bệnh lý khách quan mà phân rõ tiêu (ngọn) và bản (gốc), hư và thực, chủ và thứ, trước và sau…để từ đó vận dụng các biện pháp trị liệu cho phù hợp. Nhìn chung, ung thư giai đoạn đầu thường lấy khứ tà làm chủ, phù chính là phụ; giai đoạn giữa kết hợp vừa khứ tà vừa phù chính (công bổ kiêm thi); giai đoạn muộn lấy phù chính là chủ, khứ tà là phụ.

Đối chứng trị liệu: Trong quá trình phát triển của bệnh ung thư có thể xuất hiện nhiều triệu chứng khác nhau như: phát sốt, xuất huyết, đau nhức, suy nhược…Bởi vậy, bên cạnh việc tuân thủ nguyên tắc trị liệu cơ bản như đã nêu ở trên, giống như y học hiện đại, YHCT cũng sử dụng những biện pháp mang tính chất điều trị triệu chứng, có nghĩa là những bệnh lý ung thư do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng khi xuất hiện những triệu chứng giống nhau thì cách xử lý cũng tương tự nhau. Tuy nhiên, theo quan điểm của YHCT, ngay cả khi điều trị triệu chứng cũng cần phải phân biệt từng thể loại cụ thể để lựa chọn các vị thuốc, bài thuốc cho phù hợp. Ví như, cùng là triệu chứng phát sốt nhưng có thể do ngoại cảm tà nhiệt, do thấp nhiệt uất kết, do âm hư hỏa vượng…thì cách xử lý cũng không giống nhau.

Phương pháp chữa khối u bằng YHCT

Phương pháp chữa bệnh ung thư của Đông y là một mặt nhằm nâng cao sức khoẻ của người bệnh do sự phá hoại của ung thư, như những phương pháp bổ khí, bổ huyết, bổ âm, bổ dương… Mặt khác, hạn chế sự phát triển của ung thư và những đau đớn, chảy máu, chèn ép tổ chức tạng phủ do chúng gây nên như phép tiêu đàm nhuyễn kiên, hành khí tiêu đàm, hoạt huyết hóa ứ, lương huyết tiêu độc, thanh nhiệt chỉ huyết…

Điều trị bằng Đông y gồm sử dụng thuốc theo biện chứng (tuỳ tình hình bệnh và cơ thể bệnh nhân mà chọn bài thuốc và phép chữa thích hợp, hoặc dùng bài thuốc theo kinh nghiệm, uống thuốc và đắp bôi thuốc ngoài.

Sau đây là những phương pháp chính chữa bệnh uống thuốc trong theo biện chứng luận trị Đông y học, còn những bài thuốc kinh nghiệm và thuốc dùng ngoài sẽ được giới thiệu trong phần chữa từng loại bệnh ung thư.

Một số phương pháp chính chữa khối u bằng thuốc uống trong

Thanh nhiệt giải độc:

Chỉ định: Trường hợp bệnh nhân sốt cao người nóng, khát nước, bứt rứt khó chịu, miệng đắng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác… gặp trong ung thư máu, ung thư cổ tử cung, ung thư ngoài da có kèm lở loét…

Vị thuốc thường dùng: Kim ngân hoa, Thổ Phục linh, Liên kiều, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm, Trúc diệp, Thạch cao, Tri mẫu, Xuyên tâm liên, Thanh đại, Bồ công anh, Xạ can, Ngư tinh thảo, Bại tương thảo, Sơn đậu căn…

Bài thuốc thường dùng:

Phổ tễ tiêu độc ẩm (Hoàng liên, Hoàng cầm, Trần bì, Cam thảo, Liên kiều, Bản lam căn, Mã bột, Ngưu bàng tử, Bạc hà, Cương tàm, Thăng ma, Sài hồ, Cát cánh).

Hoàng liên giải độc thang (Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Chi tử).

Tiên phương hoạt mệnh ẩm (Xuyên sơn giáp, Bạch chỉ, Thiên hoa phấn, Tạo giác thích, Qui vỹ, Xích thược, Cam thảo, Nhủ hương, Một dược, Phòng phong, Bối mẫu, Trần bì, Kim ngân hoa).

Ngũ vị tiêu độc ẩm (Kim ngân hoa, Bồ công anh, Tử hoa địa đinh, Tử bôi, Thiên quí).

Tứ diệu dũng an thang (Huyền sâm, Đương qui, Kim ngân hoa, Cam thảo.

Lương huyết chỉ huyết:

Chỉ định: Trường hợp ung thư có sốt cao hoặc thấp kèm theo triệu chứng chảy máu như máu cam, máu răng lợi, nôn ra máu, tiểu ra máu, tiểu đỏ… chất lưỡi đỏ, mạch trầm sác hoặc tế sác.

Vị thuốc thường dùng: Tê giác, Quảng tê giác, sinh Địa, Địa cốt bì, Huyền sâm, Tử thảo, Thanh hao, Ngân Sài hồ, Hạn liên thảo (cỏ nhọ nồi), Ngẫu tiết (liên ngẫu, ngó sen), Liên phòng (gương sen), Trắc bá diệp, Ô tặc cốt (mai mực, hải phiêu tiêu) Hoa hòe, Bẹ móc (tông lữ), đất lòng bếp (phục long can), Tiên hạc thảo, Bách thảo sương (muội nồi) Thuyên thảo (Tây thảo) Địa du, 0 rô cạn (đại kế), Tiểu kế…

Bài thuốc thường dùng:

Thường dùng thuốc lương huyết gia thuốc chỉ huyết.

Thanh dinh thang gia vị (Tê giác, sinh Địa, Huyền sâm, tim Lá tre, Mạch môn, Đơn sâm, Kim ngân hoa, Liên kiều) gia Hoa hòe tán, (Hoa hòe, Trắc bá diệp, Kinh giới tuệ, đều sao cháy tồn tính).

Tê giác địa hoàng thang (Tê giác, sinh Địa, Xích thược, Đơn bì) gia Thập khôi tán (Đại tiểu kế, lá Sen, lá Ngải cứu, là Trắc bá, Mao căn, Tây thảo căn, Đại hoàng, Chi tử, Tông lữ bì) lượng bằng nhau, đều sao tồn tính tán bột mịn mỗi lần uống với nước sôi để nguội.

Tư âm thanh nhiệt:

Chỉ định: Trường hợp ung thư kéo dài gây sốt âm ỉ, sốt tăng vào chiều và đêm, ra mồ hôi ban đêm, người nóng khó ngủ, uống nhiều nước, tiểu vàng, tiêu bón, thân lưỡi thon, rêu vàng khô, mạch trầm tế sác, vô lực.

Vị thuốc thường dùng: Sinh Địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Thiên hoa phấn, Miết giáp, Qui bản, Tri mẫu, Mẫu đơn bì, Ngân Sài hồ, Hồ hoàng liên, Hoàng tinh, Cát căn, Bạch thược, Liên kiều, Hồ ma nhân, Đại hoàng, Hoàng bá, Huyền sâm, A giao, Địa cốt bì… thường dùng các loại thuốc tư âm và thanh nhiệt kết hợp.

Bài thuốc thường dùng:

Thanh táo cứu phế thang (Tang diệp, Thạch cao, Đảng sâm, Cam thảo, Hồ ma nhân, A giao, Mạch môn, hạnh nhân, Tỳ bà diệp).

Sa sâm Mạch môn thang (Sa sâm, Mạch môn, ngọc trúc, Cam thảo, Tang diệp, sinh Biển đậu, Thiên hoa phấn).

Dưỡng âm thanh phế thang (sinh Địa, Mạch môn, Cam thảo, huyền sâm, Bối mẫu, Đơn bì, Bạc hà, Bạch thược).

Bách hợp cố kim thang (Sinh, Thục địa, Bối mẫu, Bách hợp, Mạch môn, Huyền sâm, Đương qui, Bạch thược, Cam thảo, Cát cánh).

Những bài thuốc trên gia giảm chủ yếu, dùng chữa ung thư phổi và đường hô hấp.

Đại bổ âm hoàn (Hoàng bá, Tri mẫu, Thục địa, Qui bản).

Nhất quán tiễn (Bắc Sa sâm, Đương qui, sinh Địa, kỷ tử, Xuyên luyện tử). Hai bài thuốc này chữa ung thư có hội chứng can thận âm hư gây bốc hư hỏa (da nóng, bứt rứt, sốt chiều, mồ hôi trộm, đau ngực sườn, ho nôn ra máu…).

Lục vị địa hoàng hoàn (Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả, Đơn bì). Tri mẫu địa hoàng hoàn (Lục vị gia tri mẫu, Hoàng bá), Kỷ cúc Địa hoàng hoàn (Lục vị gia Câu kỷ tử, Cúc hoa), Mạch vị Địa hoàng hoàn (Lục vị gia Mạch môn, Ngũ vị tử) đều dùng để chữa ung thư có hội chứng âm hư.

Hành khí hoạt huyết:

Chỉ định: Được dùng nhiều trong các bệnh ung thư có đau do khối ung thư gây chèn ép. Y học cổ truyền cho rằng đau là do khí huyết ứ trệ, nếu là khí trệ thì đau tức và đau truyền lan các vùng khác, nếu là huyết ứ thì đau như dao đâm có tính cố định thường vào giai đoạn khối u phát triển lớn. Ớ vào giai đoạn này, thường cơ thể bệnh nhân suy yếu cho nên phép hoạt huyết hoá ứ thường kèm bổ khí huyết.

Vị thuốc thường dùng: Thuốc hành khí thường dùng có: Hương phụ, Mộc hương, Sa nhân, Ô dược, Quất bì, Thanh bì, Hậu phác, Chỉ xác, Chỉ thực, Bạch đậu khấu, Đàn hương, Lệ chi hạch, Đại phúc bì, Trầm hương…Thuốc hoạt huyết thường dùng có: Đơn sâm, Xích thược, ích mẫu thảo, Trạch lan, Xuyên khung, Xuyên Ngưu Tất, Đào nhân, uất kim, Khương hoàng, Nga truật, Tam lăng, Tô mộc, Nhũ hương, Mộc dược, Hồng hoa, Đào nhân, Vương bất lưu hành, Huyết kiệt, Ngũ linh chi.

Bài thuốc thường dùng:

  • Việt Cúc hoàn (Thương truật, Hương phụ, Xuyên khung, Thần khúc, Sơn chi tử sao), lượng bằng nhau, tán bột mịn, nước làm hoàn nhỏ, mỗi lần uống 6 – 10g hoặc làm thang sắc uống trị ung thư dạ dày, bụng đầy tức, nôn, ợ thức ăn không tiêu.
  • Bán hạ hậu phác thang (Bán hạ chế, Hậu phác, Phục linh, sinh Khương, Tô diệp) trị ung thư hô hấp ngực sườn đầy tức, ho khó thở, có đờm nôn ra khó
  • Ô dược tán (Ô dược, Mộc hương, Tiểu hồi hương, Thanh bì, Cao lương khương, Binh lang, Xuyên luyện tử, Ba đậu chế) có tác dụng giảm đau.
  • Quất hạch hoàn (Quất hạch, Hải tảo, Côn bố, Xuyên luyện tử, Đào nhân, Hậu phác, Mộc thông, Chỉ thực, Diên hồ sách, Quế tâm, Mộc hương) có tác dụng nhuyễn kiên tán kết giảm đau.
  • Quất bì Trúc nhự thang (Quất bì, Trúc nhự, Đại táo, sinh Khương, Cam thảo, Đảng sâm) có tác dụng trị nôn.

Những bài thuốc hoạt huyết thường dùng có:

Đào nhân thừa khí thang (Đào nhân, Đại Hoàng, Quế chi, chích Thảo, Mang tiêu).

Huyết phủ trục ứ thang (Đương qui, sinh Địa, Đào nhân, Hồng hoa, Chỉ xác, Xích thược, Sài hồ, Cam thảo, Cát cánh, Xuyên khung, Ngưu Tất).

Cách hạ trục ứ thang (Ngũ linh chi sao); Đương qui, Xuyên khung, Đào nhân, Đơn bì, Xích thược, Ô dược, Diên hồ, Cam thảo, Hương phụ, Hồng hoa, Chỉ xác)

Tiểu phúc trục ứ thang (Tiểu hồi, Can khương, Diên hồ, Một dược, Xuyên khung, Đương qui, Nhục quế, Xích thược, Bồ hoàng, Ngũ linh chi sao).

Thân thống trục ứ thang (Tần giao, Xuyên khung, Một dược, Đương qui, Ngũ linh chi sao, Hương phụ, Ngưu Tất). Những bài thuốc trục ứ được dùng tùy theo vị trí đau của ung thư.

Bổ dương hoàn ngũ thang (Hoàng kỳ, Đương qui vỹ, Xích thược, Địa long, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa) tác dụng thông lạc hoạt huyết bổ khí trị ung thư gây liệt, méo miệng khó nói…

  • Thất tiếu tán (Ngũ linh chi, Bồ hoàng lượng bằng nhau).
  • Sinh hóa thang (Đương qui, Xuyên khung, Đào nhân, Bào khương, chích Thảo).

Theo một số tác giả Trung Quốc và Nhật Bản đã nghiên cứu trên chuột và cả trên người đều nhận thấy thuốc hành khí hoạt huyết có tác dụng ức chế tế bào ung thư cho nên có tác giả đã dùng thuốc lý khí hạch huyết để phòng bệnh ung thư.

Bổ khí huyết:

Chỉ định: Bệnh ung thư phát triển nhanh làm cho người bệnh cơ thể chống suy nhược, thiếu máu nên phép bổ khí huyết nâng cao sức chống đỡ của người là rất cần thiết đối với mọi loại ung thư.

Vị thuốc thường dùng:

  • Thuốc bổ khí: Nhân sâm, Sâm khu V, Cát Lâm sâm, Tây dương sâm, Đảng sâm, Sâm bố chính, Hoàng kỳ, Bạch truật, Hoài sơn, Đinh lăng, Cam thảo, Đại táo, Ngũ gia bì, kẹo Mạch nha, Mật ong…
  • Thuốc bổ huyết: Đương qui, Thục địa, Hà thủ ô, tang thầm, Tử hà sa (rau thai nhi), A giao (keo da lừa), Long nhãn nhục, Câu kỷ tử…

Bài thuốc thường dùng:

Bài thuốc bổ khí: Độc sâm thang (một vị Nhân sâm). Tứ quân tử thang (Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh, chích Thảo), Lục quân tử thang (Tứ quân gia Trần bì Bán hạ) hương sa lục quân (Lục quân tử gia Mộc hương Sa nhân Sâm Linh Bạch truật tán (Tứ quân gia Hoài sơn, Biển đậu, Liên nhục, Ý dĩ, Cát cánh, Sa nhân) bổ trung ích khí thang (Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, chích Thảo, Đương qui, Trần bì, Thăng ma, Sài hồ) Sinh mạch tán (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị).

Bài thuốc bổ huyết: Tứ vật thang (Thục địa, Xuyên qui, Bạch thược, Xuyên khung), Dao ngải thang (Xuyên khung, A dao, Cam thảo, Ngãi diệp, Đương qui, Bạch thược, can Địa hoàng), Đương qui bổ huyết thang (Hoàng kỳ, Đương qui)…

Bài thuốc bổ khí huyết: Bát trân thang (Tứ quân gia tứ vật, lúc dùng gia sinh Khương Đại táo), Hà sa đại tạo hoàn (Tử hà sa, Nhân sâm, sinh Địa, Đỗ trọng, Thiên môn, Mạch môn, Qui bản, Hoàng bá, Phục linh, Ngưu Tất), Hà nhân ẩm (Hà thủ ô, Nhân sâm, Đương qui, Trần bì, sinh Khương)…

Bổ dương:

Chỉ định: Thường dùng phép ôn tỳ, ôn thận hoặc ôn tỳ thận trong trường hợp bệnh nhân chân tay lạnh, hay tiêu chảy, ăn không tiêu đầy bụng, phù… thường gặp vào giai đoạn cuối của bệnh, người suy kiệt, mạch chậm, huyết áp hạ, lúc nặng phải dùng hồi dương cứu nghịch để cấp cứu.

Vị thuốc thường dùng: Chê Phụ tử, Quê nhục, Nhục thung dung, Nhục đậu khấu, Sơn thù, Thỏ ti tử, Sa uyển tật lê, Đỗ trọng, Tục đoạn, Ba kích thiên, cẩu tích, Bổ cốt chỉ, Cổ toái bổ, Lộc nhung, Cáp giới, ích trí nhân, Dâm dương hoắc…

Bài thuốc thường dùng:

  • Thận khí hoàn (can Địa hoàng, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Bạch linh, Đơn bì, Quế nhục, chế Phụ tử).
  • Hữu qui hoàn (Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, thục Phụ tử, Quế nhục, Câu kỷ tử, Đỗ trọng, Thỏ ti tử, Đương qui, Lộc giáo dao).
  • Chân vũ thang (Bạch linh, Bạch truật, Bạch thược, chế Phụ tử, sinh Khương
  • Sâm phụ thang (Nhân sâm, chế Phụ tử).

Hóa Đàm Nhuyễn Kiên:

Chỉ định: Theo y học cổ truyền, hoá đàm nhuyễn kiên là phép trị tiêu có thể dùng cho tất cả các loại ung thư có khối ung thư và hạch sưng to thường kết hợp với phép hành khí hoạt huyết và tuỳ theo trạng thái bệnh lý mà kết hợp với các phép khác như bổ khí huyết, thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ huyết…

Vị thuốc thường dùng: Có loại hóa đàm tán kết (hạn chế sự phát triển khối u) như Xuyên bối, Qua lâu nhân, Côn bố, Hải tảo, Hải phù thạch, Hải cáp xác… có loại hóa đàm chỉ khái (làm giảm ho trong trường hợp ung thư bộ máy hô hấp) như Ngưu hoàng, Trúc lịch, Trúc nhự, Qua lâu, Bối mẫu, Bán hạ, Nam tinh, Bạch giới tử, Tạo giác, Tỳ bà diệp, Tiền hồ, Cát cánh… có loại hóa đàm bình suyễn an thần như Thanh mông thạch, Ngưu hoàng, Thiên trúc hoàng, Phê thạch, Tạo giác, Bạch giới tử, La bặc tử, Bạch quả, Tang bì…

Bài thuốc thường dùng:

  • Nhị trần thang (Chế Bán hạ, Trần bì, Bạch linh, chích Thảo, nguyên phương có thêm sinh Khương, Ô mai).
  • Ôn đởm thang (bài Nhị trần gia Trúc nhự, Chỉ thực, có thêm tác dụng cầm nôn).
  • Địch đởm hoàn (Nhị trần gia đởm nam tinh, Chỉ thực, Đảng sâm, Xương bồ, Trúc nhự, trị trường hợp ung thư đờm lên mê man, nói khó.
  • Kim thủy lục quân tiễn (nhị trần thang gia Đương qui, Thục địa) có tác dụng tư âm hoá đờm.
  • Bối mẫu Qua lâu tán (Bối mẫu, Qua lâu, Thiên hoa phấn, Bạch linh quất hồng Cát cánh) tác dụng thanh nhiệt hóa đờm.
  • Tiêu loa hóa đờm hỏa nhuyễn (Sâm, sinh Mẫu lệ, Bối mẫu, lượng bằng nhau) tác dụng hóa đờm nhuyễn kiên…

Như vậy, các phương pháp chữa bệnh ung thư của YHCT là phương pháp bổ, phù hợp với việc tăng cường khả năng miễn giảm ung thư của cơ thể, kết hợp với phương pháp nhuyễn kiên, tán kết, công hạ hạn chế sự phát triển của ung thư.

Tuy nhiên với nguyên tắc phải phát huy tác dụng của phương pháp chữa bệnh bằng YHCT còn là một phương pháp chữa bệnh chậm.

Để hạn chế sự phát triển của khối u cần phối hợp các phương pháp của YHHĐ như cắt bỏ khối u, dùng xạ trị hay hóa trị giúp cho các thuốc đông y có thời gian phát huy tác dụng.

Trên đây chúng tôi giới thiệu những phương pháp chính điều trị bệnh ung thư theo biện chứng y học cổ truyền thường được kết hợp với nhau tùy theo tình hình bệnh lý. Ngoài ra, còn có những bài thuốc kinh nghiệm dùng ngoài hoặc uống trong được giới thiệu trong từng loại bệnh ở phần sau.

Nguồn: Trường Đại Học Y Hà Nội – Khoa YHCT, Nội khoa YHCT, Nxb Y học, 2003.

5/5 - (1 bình chọn)

Đông y Gia Khương
Địa chỉ: U01-LK64 Khu đô thị Đô Nghĩa, P. Yên Nghĩa, Q.Hà Đông, TP. Hà Nội.

Hotline tư vấn và đặt lịch lịch khám:
0977 25 77 85

Chia sẻ bài viết lên:

Viết một bình luận